Khi nền kinh tế một quốc gia rơi vào tình trạng suy thoái và không tìm ra hướng giải quyết sẽ dẫn tới nền kinh tế rơi vào khủng hoảng. Khủng hoảng kinh tế kéo theo vô vàn những hệ lụy. Nó làm biến đổi về mọi mặt của xã hội. Vậy cụ thể, khủng hoảng kinh tế được định nghĩa như thế nào? Biểu hiện và hậu quả của nó ra sao? Chúng ta cùng nhau điểm qua các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới qua bài viết dưới đây nhé!
Khủng hoảng kinh tế là gì?
Khủng hoảng kinh tế là gì?
Theo Mác Lê-nin, khủng hoảng kinh tế là tình trạng mà nền kinh tế suy thoái đột ngột. Hiện tượng này thường sẽ diễn biến trầm trọng và có xu hướng kéo dài. Vào thời kỳ nền kinh tế khủng hoảng, các chỉ số như: tổng sản phẩm quốc nội (hay GDP) có xu hướng giảm. Nó kéo sẽ theo thị trường bất động sản và chứng khoán cũng giảm sâu, đồng thời những khoản thanh toán rơi vào cạn kiệt.
Trong thời kỳ khủng hoảng nền kinh tế, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thường sẽ giảm sâu, các thanh khoản dần cạn kiệt, thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán cũng theo đó giảm sâu. Điều này gây nên tình trạng bán tháo trên thị trường.
Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế
Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế
Mặc dù khủng hoảng kinh tế có thể chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia hay một khu vực, tuy nhiên với xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay thì khủng hoảng kinh tế rất dễ lan rộng ra phạm vi toàn cầu.
- Thứ nhất, khủng hoảng kinh tế là thời kỳ khởi điểm của một chu kỳ kinh tế mới. Ở giai đoạn này, hàng hoá sẽ bị ứ đọng, không tiêu thụ được, giá cả của hàng hóa giảm mạnh, sản xuất đình trệ. Điều này dẫn đến nguy cơ đóng cửa của các nhà máy hay xí nghiệp. Nhiều lao động bị thất nghiệp, lương thấp hoặc bỏ việc đồng loạt. Các công ty tư bản không còn khả năng thanh toán những khoản nợ dẫn đến phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản.
Nguyên nhân của những cuộc khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản được bắt nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó chính là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hoá cao đối với chế độ sở hữu tư nhân.
Ở phương thức trước chủ nghĩa tư bản thường xảy ra những biến động trong đời sống kinh tế. Những biến động này thường được gây nên bởi thiên tai, dịch tễ, hoặc do chiến tranh làm cho sản xuất bị tàn phá, nhân dân rơi vào tình cảnh đói nghèo do thiếu thốn về sản phẩm. Các nhà kinh tế học đã giải thích những nguyên nhân gây nên cuộc khủng hoảng kinh tế là do sự mất cân đối giữa các ngành sản xuất hoặc do tiêu dùng không theo kịp với sản xuất.
Mặc dù có những thay đổi phương thức chủ nghĩa tư bản nhưng hơn một thế kỷ nay, tình trạng khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra định kỳ, không những không giảm mà ngày một trở nên trầm trọng thêm. Từ 1925 là năm đã diễn ra cuộc khủng hoảng thừa đầu tiên trong lịch sử chủ nghĩa tư bản. Cho đến nay, chủ nghĩa tư bản đã trải qua ít nhất 16 lần khủng hoảng.
- Thứ hai, khủng hoảng kinh tế chính là hiện tượng mà chủ nghĩa tư bản mới có và khi trở thành cố tật thì không thể nào cứu chữa. Nguyên nhân đến từ những mâu thuẫn đối kháng mà nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ngay từ khi ra đời vốn đã mang trong lòng nó.
Trước hết phải nói đến mâu thuẫn giữa tính tổ chức trong sản xuất đối với từng xí nghiệp riêng rẽ và hiện tượng vô chính phủ ở lĩnh vực sản xuất trong phạm vi toàn xã hội. Mâu thuẫn này đã tạo ra hiện tượng vô chính phủ cực kỳ nghiêm trọng, không chỉ riêng ở chủ nghĩa tư bản mới có tình trạng sản xuất này. Bất kể hàng hoá nào dựa vào chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đều sẽ chứa đựng đặc điểm này. Ở đây người sản xuất đều tiến hành sản xuất theo ý mình và không ai biết thị trường đang cần đến loại hàng hoá nào và cần số lượng bao nhiêu. Chỉ khi mang ra thị trường thì giá trị của hàng hoá mới được định đoạt, hàng hoá có thể sẽ bán được hoặc không bán được nếu như không đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Như vậy, hiện tượng vô chính phủ đối với sản xuất hàng hoá đã chứa đựng sẵn khả năng khủng hoảng. Vì thế, những gián đoạn trong quá trình tiêu thụ bởi tình trạng vô chính phủ của hoạt động sản xuất hàng hoá gây nên chưa thể dẫn tới sự đổ vỡ toàn bộ nền sản xuất.
- Thứ ba, nguyên nhân từ tình trạng mất cân đối giữa các ngành sản xuất đối với tiêu dùng. Mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng đến từ bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Sản xuất vô chính phủ không phải là một trong những nguyên nhân duy nhất của cuộc khủng hoảng. Chỉ khi khối lượng sản xuất hàng hóa vượt xa so với sức mua của người tiêu dùng thì khi đó hiện tượng mất cân đối bởi sản xuất vô chính phủ gây nên mới dẫn đến sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng. Do chịu tác động của mâu thuẫn giữa xu thế mở rộng sản xuất vô hạn của chủ nghĩa tư bản và sức mua giới hạn của người tiêu dùng.
- Thứ tư, hàng hoá không phải tuyệt đối dư thừa bởi vì nó còn xa mới có thể đáp ứng nhu cầu về tiêu dùng của xã hội. Hàng hoá chỉ thừa một cách tương đối và thừa so với sức mua còn thấp của xã hội. Vì vậy, khủng hoảng sản xuất thừa còn gắn liền với mâu thuẫn giữa lao động với tư bản. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa đó là sự tước đoạt về tư liệu sản xuất từ tay người sản xuất và làm cho họ thành vô sản và họ suốt đời đi làm thuê.
>> Tham khảo thêm: Thuế gián thu là gì? Đặc điểm, phân loại thuế gián thu
Phân loại khủng hoảng kinh tế
Phân loại khủng hoảng kinh tế
Dựa vào những biểu hiện của sự khủng hoảng mà có thể chia thành những loại khủng hoảng kinh tế sau:
Khủng hoảng ngân hàng: Khủng hoảng này sẽ xảy ra khi ngân hàng bị rút tiền một cách đột ngột từ đồng loạt người gửi. Do đó, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngân hàng không kịp thu lại những khoản tiền cho vay trước để thanh toán cho những khách hàng đang muốn rút số tiền đã gửi. Khi đó, sẽ diễn ra cuộc chạy đua thanh toán. Khách hàng thấy được sự trì trệ của ngân hàng, họ không rút được số tiền đã gửi sẽ làm cho họ mất niềm tin vào ngân hàng.
Ví dụ: Cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra vào năm 1931 tại Hoa Kỳ. Khủng hoảng ngân hàng đó xảy ra sau thời gian mà ngân hàng cho khách hàng vay nhưng chưa thu hồi lại được để có thể thanh toán cho người gửi ngân hàng và dẫn đến vỡ nợ.
Khủng hoảng tiền tệ: Loại khủng hoảng này là sự khủng hoảng mất giá của đồng tiền. Nếu giá vật phẩm tăng và kéo dài trong một khoảng thời gian dài thì lúc này đồng tiền phải bỏ ra nhiều hơn mới có thể sở hữu được sản phẩm mình mong muốn.
Ví dụ cụ thể nhất cho sự khủng hoảng tiền tệ diễn ra ở thế kỷ 17 đó là sự kiện khủng hoảng hoa Tulip ở Hà Lan, hoặc sự sụp đổ của chứng khoán phố Wall năm 1929.
Khủng hoảng tài chính: Khủng hoảng này có liên quan đến các vấn đề trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đặc biệt là khi mà các ngân hàng lớn của một quốc gia bị sụp đổ.
Rất nhiều những vấn đề diễn biến theo chiều hướng xấu bị kéo theo làm ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô cùng với những vấn đề liên quan như: thất nghiệp, tăng trưởng GDP, lạm phát,…
Tuy vậy, khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế cũng có sự khác nhau bởi khủng hoảng tài chính nằm trong một phạm vi hẹp ở một lĩnh vực. Còn khủng hoảng kinh tế kéo theo sự trì trệ ở rất nhiều lĩnh vực và đem lại hậu quả nặng nề.
Các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
Các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
Sắp xếp theo những mốc thời gian, trên thế giới đã xảy ra không ít cuộc khủng hoảng kinh tế tiêu biểu như:
Khủng hoảng kinh tế Đế quốc La Mã vào thế kỉ I
Vào thời đế quốc La Mã cổ đại, người giàu có thuộc tầng lớp thượng lưu thường cho người nghèo hơn vay tiền và thu lợi nhuận từ số lãi vay. Tuy nhiên, cách làm giàu này khiến đế quốc La Mã nhanh chóng rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng năm 33 sau Công nguyên. Sự khủng hoảng này xuất phát từ đạo luật yêu cầu những chủ nợ đầu từ 2/3 tài sản vào bất động sản ở Italy.
Theo đạo luật, người vay phải trả những khoản tiền tương đương từ các khoản đã vay. Tuy nhiên, thực tế, người vay bị chủ nợ yêu cầu phải hoàn trả toàn bộ giá trị khoản nợ. Những con nợ buộc phải bán đất để có tiền trả nợ. Từ đó, nhu cầu bán đất tăng đột biến khiến cho giá đất giảm mạnh, người vay không xoay đủ tiền để có thể thanh toán nợ. Nhiều người do không thể thanh toán được nợ đã bị đưa ra tòa án và tịch thu tài sản.
Khủng hoảng kinh tế Châu Âu vào thế kỉ XIV
Vào đầu thế kỷ XIV, tình hình chính trị và kinh tế của Châu Âu liên tiếp gặp những cuộc khủng hoảng như: nạn đói năm 1315-1317, chiến tranh Anh – Pháp năm 1317, cái chết đen năm 1347-1351. Các biến cố liên tiếp xảy ra khiến cho nền kinh tế Châu Âu bấy giờ suy giảm nghiêm trọng, dân số giảm 1/2 đến 2/3. Tuy nhiên, giá cả hàng hóa tại Châu Âu trong bối cảnh lúc này lại tăng mạnh.
Trên khắp khu vực Châu Âu trong giai đoạn này đã xảy ra nhiều vụ vỡ nợ của các bang và ngân hàng tư nhân liên tiếp bị phá sản. Nền kinh tế Châu Âu phải gánh chịu những hậu quả vô cùng nặng nề. Ở một số khu vực, đặc biệt khu vực Đông Âu, các doanh nghiệp phải thực hiện những chính sách hỗ trợ như tăng tiền lương nhằm giữ chân người lao động không rời khỏi lãnh thổ.
Hội chứng hoa Tulip tại Hà Lan vào thế kỷ XVII
Nền kinh tế bong bóng tiêu biểu nhất phải kể đến Hội chứng hoa Tulip tại Hà Lan vào năm 1634-1637. Theo những quan điểm lúc bấy giờ, hoa tulip tượng trưng cho sự đẳng cấp và sự sang trọng. Cơn bão hoa tulip tràn vào đất nước Hà Lan vào năm 1634. Lúc này, giá một củ hoa tulip ở Hà Lan cao ngất ngưỡng, cao gấp 6 lần thu nhập bình quân hàng năm của người lao động.
Đến năm 1636, những sàn giao dịch chứng khoán ở Amsterdam Rotterdam và những thị trấn khác mở trung tâm buôn bán hoa tulip. Mọi người đổ xô mua hoa tulip với một số lượng nhiều hơn khả năng chi trả với mục đích để đầu cơ và thu lợi nhuận. Tuy nhiên, vào năm 1637, giá hoa tulip sau đó giảm nhanh và không có dấu hiệu tăng trở lại. Chỉ trong nháy mắt, toàn bộ tài sản của hàng nghìn người bốc hỏi đồng thời lợi nhuận ảo cũng biến mất.
Bong bóng cổ phiếu công ty South Sea ở Anh vào thế kỷ XVIII
Công ty South Sea của Anh được thành lập năm 1717, hình thành mạng lưới thương mại đầu tiên với khu vực Mỹ Latin. Với danh xưng này, công ty cổ phiếu đã thổi phồng danh tiếng và nhận được các khoản đầu tư từ đông đảo những nhà đầu tư cổ phiếu. Chỉ trong vòng nửa năm thì giá cổ phiếu của công ty South Sea tăng mạnh từ 128 lên 1000 bảng Anh.
Để mua cổ phiếu của công ty South Sea, nhiều nhà đầu tư đã phải vay nợ với hy vọng những cổ phiếu này sẽ sinh lời từ đó tạo nên cơn sốt đầu cơ tại Anh. Tuy nhiên, nhiều người mất đi khả năng thanh toán khi đến thời hạn, buộc bán cổ phiếu ra thị trường. Lượt bán ra ồ ạt khiến cho giá cổ phiếu tuột dốc, làm cho nhiều ngân hàng phá sản. Nền kinh tế Anh lúc này cũng nhanh chóng bị sụp đổ.
Khủng hoảng tín dụng năm 1772 vào thế kỷ XVIII
Trong những năm 60 – 70 của thế kỷ XXIII là thời kỳ mà vương quốc Anh trở nên thịnh vượng với những thành tựu thương mại và hệ thống thuộc địa lớn. Hoạt động cho vay tín dụng ở những ngân hàng nhà nước tại Anh cũng hoạt động vô cùng có hiệu quả. Tuy nhiên, sự thịnh vượng này không kéo dài lâu khi vào tháng 6/1772, Alexander Fordyce, một trong những đối tác lớn của ngân hàng sang Pháp trốn nợ.
Vụ việc khiến cho hệ thống ngân hàng ở Anh rơi vào cảnh hỗn loạn. Các chủ nợ ráo riết rút tiền khỏi ngân hàng, từ đó gây ra cuộc khủng hoảng tín dụng quy mô lớn. Cuộc khủng hoảng không chỉ dừng lại ở Anh mà nhanh chóng lan sang Scotland, Hà Lan, những khu vực khác của Châu Âu và thuộc địa của Anh ở Châu Mỹ.
Suy thoái kéo dài ở Châu Âu và Bắc Mỹ vào thế kỷ XIX
Hiện tượng lạm phát và đầu cơ tràn vào lĩnh vực đường sắt ở Mỹ cùng sự phá giá tiền tệ tại Đức đã gây nên một cuộc khủng hoảng tài chính vào năm 1873. Cuộc khủng hoảng này được xem là ngòi nổ kích hoạt chuỗi suy thoái kinh tế kéo dài ở các nước Châu Âu và Bắc Mỹ. Cuộc chiến tranh giữa Pháp và Phổ cùng cuộc hỏa hoạn lớn của Chicago và Boston vào năm 1871 cũng được xem là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này.
Hơn 18 nghìn doanh nghiệp, 10 bang cùng hàng trăm ngân hàng tại Mỹ tuyên bố phá sản, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên đến 14%. Vương quốc Anh phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng khi sự suy thoái kéo dài và đánh mất vị trí dẫn đầu về công nghiệp tại Châu Âu. Ở một số quốc gia thì cuộc suy thoái này được gọi là Đại suy thoái vào thời bấy giờ.
Đại suy thoái 1929-1939 vào thế kỷ XX
10 năm đại suy thoái này được đánh giá là cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất từ trước đến nay. Với xuất phát điểm từ nước Mỹ, cuộc đại suy thoái tàn phá kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nguyên nhân thật cho cuộc khủng hoảng kinh tế là gì đến nay vẫn chưa được làm rõ, tuy nhiên, nhiều người cho đã rằng cuộc suy thoái bắt nguồn từ sự sụp đổ của phố Wall.
Vào đầu thế kỷ XX tại Mỹ, sự dễ dàng trong việc cấp tín dụng dẫn đến sự lạm dụng vay tín dụng nhằm mục đích đầu cơ cho chứng khoán. Tháng 10 năm 1929, giá cổ phiếu phố Wall đột ngột giảm mạnh. Đây được coi là một dạng bong bóng đầu cơ gây hỗn loạn trên thị trường khi bong bóng vỡ. Bấy giờ, không chỉ doanh nghiệp mà chính phủ cũng lâm vào cảnh chồng chất nợ nần.
Chính sách thuế và những khoản nợ khiến Mỹ không thể xuất khẩu hàng hóa sang nước khác. Cuộc suy thoái nhanh chóng lan sang những nước khác, khiến 45% sản lượng công nghiệp bị suy giảm, phá sản 5000 ngân hàng, số người bị thất nghiệp lên đến 50 triệu người. Mâu thuẫn xã hội bắt đầu bùng nổ khi những nước nhỏ quyết định phát xít hóa để giải quyết tình trạng suy thoái, là nguyên nhân chính gây nên thế chiến thứ 2.
Khủng hoảng giá dầu OPEC vào năm 1973
Sau lệnh cấm vận của Tổ chức những nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC về việc cấm xuất khẩu đối với Mỹ và các nước đồng minh, cuộc khủng hoảng về giá dầu bắt đầu xảy ra. Động thái này gây nên tình trạng thiếu hụt dầu mỏ ở những quốc gia có liên quan, khiến giá dầu tăng mạnh, gây lạm phát nghiêm trọng. Nền kinh tế Hoa Kỳ và những nước phát triển khác bị trì trệ và lâm vào khủng hoảng và gọi là thời kỳ stagflation.
Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2007-2008
Lần khủng hoảng tài chính gần đây nhất là vào giai đoạn năm 2007-2008 xuất phát ở Mỹ và sau đó lan rộng ra toàn thị trường Châu Âu. Hiện tượng bong bóng bất động sản diễn ra cùng sự thiếu hoàn thiện trong hệ thống giám sát tài chính đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ. Mối liên hệ mật thiết về tài chính và kinh tế giữa Mỹ và những quốc gia Châu Âu bấy giờ đã khiến quy mô khủng hoảng mở rộng.
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, hàng loạt các ngân hàng thương mại đã mất khả năng hoàn trả khoản gửi cho khách hàng. Hệ thống các ngân hàng ở Mỹ và Châu Âu sụp đổ, thị trường chứng khoán giảm mạnh, diễn ra tình trạng đói tín dụng, giá trị của tiền tệ suy giảm nghiêm trọng. Hậu quả của cuộc khủng hoảng này là sự đình trệ trong tăng trưởng kinh tế, gây khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới
Hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới
Khủng hoảng kinh tế là hiện tượng kinh tế không ai mong muốn bởi những tác động tiêu cực và hậu quả nặng nề mà chúng mang lại. Dưới đây là những ảnh hưởng cũng như hậu quả của nó:
- Tình trạng bất ổn diễn ra trong và ngoài khu vực
Có rất nhiều doanh nghiệp, công ty rơi vào tình trạng phá sản khi đối mặt với thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động sản xuất bị đình trệ, lợi nhuận không đảm bảo, những khoản vay đến hạn không có khả năng thanh toán, … Khủng hoảng kinh tế còn gây hiện tượng lạm phát phi mã, lạm phát với tốc độ hai hoặc ba con số, tạo thành vòng xoáy mất nhiều năm mới có thể thoát ra.
- Khủng hoảng toàn cầu
Quan hệ hợp tác giữa các quốc gia vô hình, đã khiến sự phụ thuộc giữa những quốc gia ngày một nhiều hơn. Do đó, khi nền kinh tế một quốc gia xảy ra hiện tượng khủng hoảng, những quốc gia còn lại cũng sẽ chịu các ảnh hưởng nhất định. Trường hợp quốc gia bị khủng hoảng là những cường quốc như Mỹ, Trung Quốc hoặc Châu Âu thì nền kinh tế toàn cầu càng dễ dàng bị ảnh hưởng và suy thoái.
- Vấn đề nhân đạo tại thời kỳ khủng hoảng
Tỷ lệ thất nghiệp tại thời kỳ khủng hoảng kinh tế có xu hướng tăng so với khi nền kinh tế ổn định. Chủ yếu là do những doanh nghiệp, nhà máy phải cắt giảm nhân sự để giảm thiểu chi phí nhân công cho doanh nghiệp. Đời sống vật chất, tinh thần của người lao động không được đảm bảo, nhu cầu cơ bản như ăn, uống, nghỉ ngơi không được đáp ứng đầy đủ.
Tỷ lệ hộ nghèo và trẻ em không được đi học tỷ lệ thuận một cách tiêu cực vào thời kỳ khủng hoảng. Tỷ lệ bạo lực và tệ nạn xã hội gia tăng khi chất lượng cuộc sống suy giảm. Bên cạnh đó, để thoát khỏi thực trạng khủng hoảng tại nước nhà, người dân lại có xu hướng muốn di cư sang quốc gia khác với mong muốn có cuộc sống tốt hơn. Điều này có thể gây ra một cuộc khủng hoảng về sự di cư cho thế giới.
Đầu tư gì trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế?
Đầu tư gì trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế?
Kinh tế rơi vào suy thoái khiến nhà đầu tư mất đi sự lạc quan trong tương lai nền kinh tế và hoạt động kinh doanh của các công ty. Việc không chắc chắn và những mối lo ngại gây ra những đợt bán tháo tài sản trên thị trường nhằm đảm bảo dự phòng một khoản tiền mặt. Điều này làm giá tài sản nắm giữ lao dốc không phanh.
Tuy nhiên, một số người xem đầu tư trong thời kỳ khủng hoảng chính là cơ hội. Một số nhà đầu tư lựa chọn những danh mục đầu tư vào những kênh đầu tư an toàn như:
Đầu tư vàng
Khi cuộc khủng hoảng kinh tế diễn biến theo chiều hướng phức tạp, vàng lại được xem là một loại tài sản trú ẩn an toàn. Là kim loại quý hiếm lại có tính thanh khoản cao, giữ vai trò giữ an toàn giá trị tài sản của nhà đầu tư theo thời gian, đặc biệt là khi những loại tiền pháp định mất giá.
Đầu tư qua đầu tư
Hình thức này tư phù hợp với những người chưa có nhiều kinh nghiệm. Đây được xem là loại hình đầu tư được quản lý mức độ rủi ro rất chặt chẽ bởi các chuyên gia về lĩnh vực tài chính. Khi thị trường có dấu hiệu giảm xuống, những nhà quản lý của quỹ sẽ có sự điều chỉnh phù hợp, nắm giữ những loại tài sản ít rủi ro để đảm bảo an toàn cho nhà đầu tư.
Đầu tư bảo hiểm nhân thọ kết hợp với đầu tư tài chính
Bảo hiểm nhân thọ kết hợp với tài chính là sản phẩm được cung cấp bởi công ty bảo hiểm. Ngoài bảo hiểm người tham gia đứng trước những rủi ro về sức khỏe, tính mạng và bồi thường bảo hiểm, công ty bảo hiểm còn chia phần lợi nhuận cho khách hàng từ phần phí đóng để có thể đầu tư sinh lời.
Một phần phí bảo hiểm được gom vào một quỹ nào đó và thực hiện đầu tư bằng những hình thức rất an toàn, được Bộ tài chính chấp thuận. Theo đó, qua sự gia tăng giá trị tài khoản nhờ lợi nhuận hàng năm thì khách hàng sẽ nhận được mức giá trị hợp đồng bảo hiểm lớn hơn số tiền đã đầu tư tại thời điểm hợp đồng chấm dứt.
Đầu tư vào các cổ phiếu an toàn
Trong giai đoạn khủng hoảng, những cổ phiếu có độ an toàn là phương án đầu tư ưa thích. Các công ty nằm ở nhóm này thường thuộc những ngành có lịch sử hoạt động rất ổn định trong giai đoạn kinh tế khó khăn.
Nhà đầu tư sẽ lựa chọn cổ phiếu của những công ty chất lượng cao, ổn định, tỷ lệ nợ thấp và có bảng cân đối kế toán thể hiện rõ tính minh bạch. Ngoài ra, nhà đầu tư còn có thể căn cứ vào dòng tiền ổn định cũng như dự đoán được trước khủng hoảng để đưa ra quyết định.
Bên cạnh việc đa dạng những danh mục đầu tư, nhà đầu tư nên xác định mục tiêu đầu tư và thận trọng trong việc lựa chọn thời điểm đầu tư. Thay vì đầu tư ồ ạt vào cùng một lúc, nhà đầu tư nên chia ra thành những giai đoạn để đầu tư hoặc trung bình hóa chi phí đầu tư để tránh rủi ro trước bối cảnh thị trường hỗn loạn. Thông qua kế hoạch này, vốn đầu tư sẽ được chia nhỏ ra nhiều phần, nhờ đó giảm thiểu rủi ro liên quan đến biến động.
Kết luận
Vừa rồi là những thông tin chúng tôi cung cấp về các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Khủng hoảng kinh tế là một hiện tượng kinh tế không một ai mong muốn bởi các ảnh hưởng nặng nề đối với nền kinh tế của chúng. Khái niệm về khủng hoảng kinh tế không còn xa lạ với mọi người khi lịch sử thế giới đã ghi nhận rất nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế. Quy mô của khủng hoảng ngày càng lớn, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức được khủng hoảng kinh tế là gì cũng như cách thức đối phó khi có khủng hoảng.
MyTrade cùng khách hàng tận dụng tối đa những cơ hội của thị trường để mang lại lợi nhuận tối ưu. Nếu bạn có câu hỏi thắc mắc nào về các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hãy liên hệ đến cho chúng tôi để được tư vấn và cung cấp thêm nhiều thông tin hữu ích. Liên hệ theo số Hotline 1900966935 – 0983.668.883 để được hỗ trợ tốt nhất.
– Apple Store: https://apps.apple.com/us/app/mytrade-đầu-tư-cho-mọi-người/id1610468053
– Google Play: https://play.google.com/store/apps/details?id=vn.ftv.mytrade