Phương pháp Wyckoff là gì? Phương pháp Wyckoff trong đầu tư tài chính

Phương pháp Wyckoff là gì và đóng vai trò như thế nào trong việc giúp các nhà đầu tư phân tích thị trường chứng khoán. Hãy cùng My Trade tìm hiểu cụ thể trong bài viết dưới đây.

Đối với các nhà đầu tư, để thu được lợi nhuận cao khi tham gia vào thị trường chứng khoán, thì đầu tư theo cảm tính là điều không nên mà chỉ nên dựa trên những phương pháp và công cụ phân tích tài chính phù hợp. Trong số đó phương pháp Wyckoff là một trong những phương pháp được sử dụng phổ biến và rộng rãi hiện nay. Phương pháp này là sự kết hợp giữa 2 trường phái phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật giúp cho những nhà đầu tư đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn đồng thời sẽ loại bỏ được thói quen giao dịch theo cảm tính. Hôm nay, My Trade sẽ cùng bạn đọc tập trung tìm hiểu, phân tích khái niệm phương pháp Wyckoff là gì, chu kỳ và các quy luật, cách phân tích thị trường của phương pháp này.

Phương pháp Wyckoff là gì?

Phuong pháp Wyckoff là gì?

Phương pháp Wyckoff là gì?

Phương pháp Wyckoff là một loạt các nguyên tắc, quy luật và kỹ thuật giao dịch được thiết kế với mục đích giúp nhà đầu tư đánh giá tổng thể tình hình thị trường sau đó tìm ra những cổ phiếu có lợi nhuận tiềm năng và xác định mục tiêu giao dịch hiệu quả.

Đã có rất nhiều phương pháp và mô hình giao dịch ra đời, từ nền tảng của phương pháp Wyckoff, trong số đó có 2 phương pháp rất nổi tiếng đã được vận dụng phổ biến trên thị trường, đó là phương pháp VSA (Phân tích khối lượng và giá) và mô hình Spring and Upthrust.

Mặc dù phương pháp Wyckoff ban đầu đã được ứng dụng trong thị trường chứng khoán, tuy nhiên ngày nay, phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong các loại thị trường tài chính khác nhau như tiền tệ, tiền điện tử, hàng hóa hay trái phiếu.

Vài nét về nguồn gốc của phương pháp Wyckoff

Phương pháp Wyckoff tên đầy đủ là Richard Demille Wyckoff, (02/11/1873 – 07/03/1934). Năm 15 tuổi, sự nghiệp của ông bắt đầu trên thị trường tài chính bằng vị trí nhân viên nhập lệnh cho một công ty môi giới ở New York. Thời gian hơn 10 năm làm việc và tích lũy kinh nghiệm, nguồn vốn, ông đã tự mở một công ty môi giới riêng của mình và từ đó ông chính thức bắt đầu tìm hiểu sâu hơn về logic đằng sau những hành động phát triển của thị trường.

Ông đã phát triển phương pháp Wyckoff thông qua quá trình trò chuyện, nghiên cứu và phỏng vấn về các nhà giao dịch thành công cùng thời như E. H. Harriman, Jesse Livermore, James R. Keene, J.P. Morgan, Otto Kahn,… với cách hệ thống hóa các phương pháp giao dịch hay nhất của những “chuyên gia” này, cộng thêm với kinh nghiệm và phương pháp giao dịch của chính bản thân để tạo thành các quy luật, kỹ thuật giao dịch, nguyên tắc, quản lý tiền và kỷ luật tinh thần.

Richard Demille Wyckoff đã vận dụng phương pháp của mình vào thị trường tài chính, cụ thể là thị trường chứng khoán và gia tăng được khối lượng tài sản của mình rất lớn. Sau khi đã có lợi nhuận nhờ phương pháp giao dịch của mình, ông bắt đầu với niềm đam mê giảng dạy và xuất bản.

Trong gần 20 năm, Wyckoff vừa là nhà sáng lập vừa đồng thời là biên tập viên của tờ “Tạp chí Phố Wall”, đây là một tờ báo đã từng có thời điểm đạt được 200,000 người đăng ký theo dõi. Ông thành lập một Học viện đào tạo vào năm 1930, sau này nó đã trở thành Học viện Wyckoff Mỹ. Học viện này chuyên cung cấp các khóa học đào tạo về lý thuyết và cách tiếp cận thực tế của phương pháp giao dịch Wyckoff, với việc lựa chọn cổ phiếu tiềm năng, phân tích các giai đoạn của biến động giá, cách vào lệnh mua hoặc bán, … Đến ngày nay, các khóa học này vẫn được duy trì bởi những học trò của ông như Bob Evans và Hank Pruden.

Trước đây phương pháp Wyckoff được ứng dụng vào cổ phiếu, đến ngày nay, phương pháp này vẫn được sử dụng trên các loại thị trường tài chính khác nhau như tiền tệ, hàng hóa, trái phiếu và các thị trường tài chính trực tuyến như chứng khoán hay tiền điện tử. Cho đến tận bây giờ, phương pháp Wyckoff vẫn đang là một trong những phần quan trọng trong chương trình đào tạo sau đại học của Golden Gate University ở San Francisco, Mỹ và nhiều nhà đầu tư vẫn quan tâm, vận dụng thành công vào các giao dịch hằng ngày của mình trên thị trường.

Tiếp theo, My Trade sẽ giới thiệu tổng quan các yếu tố chính và quan trọng của phương pháp Wyckoff, như các quy luật, nguyên tắc và kỹ thuật trong quá trình giao dịch, bao gồm:

• Ba quy luật cơ bản chính của phương pháp Wyckoff.
• Chu kỳ giá Wyckoff.
• Phân tích biểu đồ theo Sơ đồ Wyckoff.
• Khái niệm người vận hành đằng sau - “Composite man”.
• Tiếp cận thị trường với 5 bước.

>> Tham khảo: Rtt là gì? Cách tính Rtt trong chứng khoán - Mytrade

Ba quy luật cơ bản của phương pháp Wyckoff

Ba quy luật cơ bản của phương pháp Wyckoff

Ba quy luật cơ bản của phương pháp Wyckoff

Phương pháp luận của Wyckoff dựa trên 3 quy luật cơ bản cụ thể:

• Quy luật cung cầu.
• Quy luật nguyên nhân – kết quả.
• Quy luật nỗ lực so với kết quả.

Những quy luật này ảnh hưởng lớn đến toàn bộ các khía cạnh của nhận định và phân tích thị trường. Cụ thể bao gồm cả việc xác định xu hướng hiện tại và tương lai của từng cổ phiếu tiềm năng của toàn thị trường, lựa chọn cổ phiếu tốt nhất để thực hiện giao dịch, xác định phạm vi giao dịch, dự đoán mục tiêu lợi nhuận theo xu hướng từ hành vi của giá trong một biên độ nhất định.

1. Quy luật Cung Cầu (The law of supply and demand)

Quy luật cung - cầu là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của thị trường tài chính. Quy luật này được dùng để xác định xu hướng của giá cả. Khi cung lớn hơn cầu thì giá sẽ giảm, ngược lại khi cầu lớn hơn cung thì giá sẽ tăng. Hay nói cách khác cung chỉ về người bán, cầu chỉ người mua.

Khi số lượng người mua nhiều hơn người bán, điều này có nghĩa là nhu cầu sử dụng một loại hàng hóa tăng cao thì giá hàng hóa sẽ tăng lên. Và ngược lại khi số lượng người bán nhiều hơn người mua, nghĩa là nhu cầu giảm, giá hàng hóa giảm.

• Cầu > Cung = Giá tăng
• Cầu < Cung = Giá giảm
• Cầu = Cung = Giá hầu như không thay đổi hoặc biến động ít.

Quy luật cung – cầu này được coi là quy luật chung và cơ bản nhất của thị trường tài chính chứ không riêng cho phương pháp Wyckoff.

Rất nhiều nhà đầu tư sử dụng phương pháp Wyckoff và so sánh với các xu hướng giá, khối lượng giao dịch để có thể hình dung rõ hơn mối quan hệ giữa cung và cầu. Điều này đã giúp họ có thể dự đoán được những biến động thị trường trong tương lai.

>> Tham khảo: Chứng khoán phái sinh là gì? Giao dịch chứng khoán phái sinh

2. Quy luật Nguyên nhân – Kết quả (The law of cause and effect)

Theo quy luật nhân – quả này giúp cho các nhà đầu tư xác định được mục tiêu của giá đi lên hay xuống thông qua việc đánh giá mức độ tiềm năng của một xu hướng thị trường cụ thể. Khi đó, sự khác biệt giữa cung và cầu không còn là ngẫu nhiên nữa mà là kết quả của nhiều giai đoạn chuẩn bị trước đó cũng như các sự kiện cụ thể.

Để diễn đạt và mô tả quy luật này, Wyckoff sử dụng biểu đồ Điểm và Hình (Point and Figure chart). Trong đó, nguyên nhân được đo lường bằng số điểm đi ngang trong biểu đồ (giai đoạn tích lũy/phân phối) và kết quả chính là khoảng cách giá dịch chuyển tương ứng với số điểm đó (sau khi đã thoát ra khỏi giai đoạn tích lũy/phân phối).Vì thế nếu giá đi ngang càng lâu thì khi giá vượt ra khỏi giai đoạn đó sẽ đi theo xu hướng tăng càng mạnh.

Theo Wyckoff, giai đoạn tích lũy (nguyên nhân) cuối cùng sẽ dẫn đến giai đoạn tăng giá (kêt quả). Ngược lại, giai đoạn phân phối (nguyên nhân) cuối cùng sẽ dẫn đến giai đoạn giảm giá (kết quả). Như vậy ngoài việc xác định giá đi lên hay đi xuống thì phương pháp Wyckoff còn giúp cho các nhà đầu tư có thể tính toán ước lượng xu hướng thị trường có thể kéo dài bao lâu sau khi thoát ra khỏi phạm vi hợp nhất hoặc giao dịch.

3. Quy luật Nỗ lực so với Kết quả (The law of Effort and Result)

Quy luật Nỗ lực so với Kết quả đưa ra giúp các nhà đầu tư cảnh báo về khả năng thay đổi của một xu hướng giá trong tương lai gần và có thể được xác định thông qua sự khác nhau giữa giá và khối lượng giao dịch.

Nếu giá tài sản biến động theo cách hòa hợp với khối lượng giao dịch, có nhiều khả năng xu hướng sẽ tiếp tục. Tuy nhiên, nếu khối lượng giao dịch và giá tài sản có sự khác biệt đáng kể thì xu hướng thị trường có khả năng dừng lại hoặc đổi hướng (đảo trend).

Wyckoff cho rằng những thay đổi về giá của tài sản là kết quả của các nỗ lực và được thể hiện bằng sự thay đổi trong khối lượng giao dịch.

Chu kỳ giá của Wyckoff

Chu kỳ giá của phương pháp Wyckoff

Chu kỳ giá của Wyckoff

Theo Wyckoff, các nhà đầu tư có thể dự đoán và thấu hiểu thị trường thông qua phân tích chi tiết cung và cầu, được xác định bằng việc nghiên cứu khối lượng và thời gian, hành đồng giá. Wyckoff đã mô tả một sơ đồ về các giia đoạn diễn ra trong một chu kỳ giá, từ đó giúp các nhà đầu tư xác định các thời điểm vào lệnh hợp lý. Thời điểm để vào một lệnh mua ( Buy) là ở cuối quá trình chuẩn bị cho một đợt tăng giá (cuối giai đoạn tích lũy) và vào lệnh bán (Sell) ở cuối quá trình chuẩn bị cho một đợt giảm giá (kết thúc một giai đoạn phân phối).

Chu kỳ giá hay còn được gọi là biến động giá Wyckoff có 4 giai đoạn cụ thể: Tích lũy, Tăng giá, Phân phối và Giảm giá cụ thể như sau:

1. Tích lũy

Đây được gọi là giai đoạn mà các “composite man” - người vận hành đằng sau trên thị trường bắt đầu tích lũy tài sản. Một số thế lực này sẽ đổ khoản tiền lớn vào thị trường một cách khéo léo và chậm rãi để tránh sự biến động về giá quá nhiều. Trong giai đoạn tích lũy này thường được thể hiện dưới dạng một thị trường có xu hướng đi ngang.

2. Giai đoạn tăng giá

Thị trường sẽ bắt đầu giai đoạn tăng giá khi giai đoạn tích lũy bị phá vỡ. Lúc này thị trường sau khi đã nắm được một lượng cổ phiếu đủ lớn, cộng thêm lực bán ra gần cạn kiệt, các “composite man” bắt đầu nhanh chóng đẩy giá lên, xu hướng tăng mới bắt đầu được hình thành.

Giai đoạn tăng giá này sẽ thúc đẩy những người đang ở bên ngoài thị trường nhảy vào mua cổ phiếu, khiến cho thị trường lúc này cầu lớn hơn cung, xu hướng tiếp tục đẩy giá lên cao hơn nữa.

Tuy nhiên giai đoạn tăng giá này, không phải nhất thiết là lúc nào giá cũng đi lên mà thị trường sẽ có những giai đoạn tích lũy ngắn hay còn gọi là tái tích lũy hoặc những đợt suy thoái nhỏ gọi là điều chỉnh giảm. Lúc đó, giá sẽ đi ngang hoặc có sự điều chỉnh giảm nhẹ trong một khoảng thời gian ngắn, trước khi thị trường tiếp tục giai đoạn tăng giá trở lại.

3. Giai đoạn phân phối

Khi đã thỏa mãn nhu cầu mua cổ phiếu, các nhà đầu tư có lợi nhuận cao sẽ bắt đầu phân phối tài sản của mình cho những nhà đầu tư tham gia vào thị trường muộn hơn bằng cách bán bớt cổ phiếu ra để có thể chốt lời.

Giai đoạn này được các “composite man” thực hiện một cách khéo léo bằng cách bán ra từ từ để giá không giảm mạnh mà vẫn kích thích được nhu cầu mua vào từ các nhà đầu tư cá nhân cho đến khi nhu cầu gần như đã cạn kiệt. Tại giai đoạn này thị trường cũng có xu hướng đi ngang.

4. Giai đoạn giảm giá

Sau khi các “composite man” - người vận hành đằng sau đã bắt đầu bán một lượng lớn các phiếu của mình ra, họ sẽ đẩy thị trường đi xuống nhanh hơn. Điều đó khiến cho những nhà đầu tư khác cũng lo sợ và cũng bán cổ phiếu ra làm cho thị trường có lượng cung lớn hơn nhiều so với lượng cầu, dẫn đến giá giảm.

So với giai đoạn tích lũy và tăng giá thì giai đoạn giảm giá này sẽ diễn ra nhanh hơn cùng với cường độ mạnh hơn. Vì trong giai đoạn này, các nhà đầu tư có xu hướng muốn bán nhanh tài sản để thoát khỏi vị thế của mình.

Giống như giai đoạn tăng giá, thị trường không phải lúc nào cũng đi xuống trong giai đoạn giảm giá mà sẽ có những khoảng thời gian ngắn thị trường sẽ tái phân phối hoặc điều chỉnh tăng trước khi tiếp tục xu hướng giảm. Khi kết thúc giai đoạn giảm giá, thị trường sẽ lại tiếp tục chu kỳ bằng một giai đoạn tích lũy mới.

>> Tham khảo: Hệ số Beta là gì? Ý nghĩa, cách tính chỉ số beta trong chứng khoán

Sơ đồ phương pháp Wyckoff

Sơ đồ giai đoạn tích lũy và giai đoạn phân phối là một trong những kết quả phổ biến nhất trong các công trình của Wyckoff. Và mục tiêu lớn nhất của phương pháp Wyckoff này chính là tìm ra điểm vào lệnh hợp lý sao cho tỷ lệ Risk:Reward ( Lời : Lỗ) là tốt nhất.

Những mô hình này chia các giai đoạn Tích lũy và Phân phối thành 5 giai đoạn nhỏ hơn cùng với nhiều Sự kiện Wyckoff, được mô tả ngắn gọn dưới đây.

Trước tiên, là khái niệm phạm vi giao dịch (Trading range).

Theo Wyckoff - Trading range (Phạm vi giao dịch) là nơi mà một xu hướng (tăng hoặc giảm) trước đó bị dừng lại và thị trường tồn tại sự cân bằng tương đối giữa cung và cầu tại vùng giá đó.

Trong phạm vi giao dịch đó, các “composite man” - người vận hành đằng sau trên thị trường sẽ chuẩn bị cho chiến lược tăng giá hoặc giảm giá tiếp theo của họ trong các giai đoạn tích lũy và phân phối.

Ở những giai đoạn này thì các hoạt động mua và bán đều diễn ra rất tích cực. Trong giai đoạn tích lũy thì cổ phiếu được mua vào nhiều hơn so với bán ra và giai đoạn phân phối thì cổ phiếu được bán ra nhiều hơn so với mua vào. Mức độ tích lũy hoặc phân phối sẽ xác định cường độ phá vỡ của giá ra khỏi phạm vi giao dịch này. Tức là, giá tích lũy hoặc phân phối càng kéo dài, sự phá vỡ và hình thành xu hướng mới sau đó sẽ càng mạnh mẽ.

Một nhà đầu tư sử dụng phương pháp Wyckoff thành công khi nhận định và phán đoán chính xác xu hướng và cường độ của giá khi ra khỏi phạm vi giao dịch. Phương pháp Wyckoff sẽ cung cấp các hướng dẫn để các nhà đầu có thể nhận định các sự kiện, hành vi giá trong từng giai đoạn tích lũy và phân phối, từ đó xác định mục tiêu giá trong xu hướng tiếp theo. Và để làm được điều này, phương pháp Wyckoff đã chia giai đoạn tích lũy và phân phối thành nhiều giai đoạn nhỏ khác nhau, đồng thời mô tả các sự kiện, hành vi của giá trong từng giai đoạn nhỏ đó.

Sơ đồ Wyckoff trong giai đoạn Tích lũy

Sơ đồ Wyckoff trong giai đoạn tích lũy

Sơ đồ Wyckoff trong giai đoạn Tích lũy

Các sự kiện diễn ra trong giai đoạn Tích lũy

PS là viết tắt của từ preliminary support – hỗ trợ sơ bộ: cho thấy sự xuất hiện của một lượng mua đáng kể sau một đợt giảm giá dài hạn, nó báo hiệu xu hướng giảm có thể sắp kết thúc. Nhưng lượng mua lúc này không đủ để ngăn chặn giá tiếp tục đi xuống.

SC là Selling Climax – Điểm Bán cao trào: đây là thời điểm mà áp lực bán được đẩy lên đỉnh điểm khi các nhà đầu tư bắt đầu bỏ cuộc, hoảng loạn bán ra. Bình thường, tại điểm này, giá sẽ được đóng cửa phía trên SC – điểm bán cao trào, phản ánh hành động bắt đầu mua vào của những thế lực lớn.

AR là Automatic Rally – Phục hồi tự động: áp lực bán nhanh chóng bị hấp thụ bởi lực mua mạnh của các “composite man” - người vận hành đằng sau đã đẩy giá lên cao. Với mức giá cao nhất của đợt phục hồi này chính là đường biên trên của phạm vi giao dịch (Trading Range) trong giai đoạn tích lũy. Đường biên dưới chính là SC.

ST là Secondary Test – Thử nghiệm thứ cấp: đây là lúc thị trường thử nghiệm lại xem xu hướng giảm đã thực sự kết thúc hay chưa. Tại thời điểm đó, khối lượng giao dịch và biến động của thị trường không lớn. Có thể có một, hai hoặc nhiều thử nghiệm thứ cấp sau một điểm bán cao trào và cũng không nhất thiết thử nghiệm thứ cấp phải thấp hơn điểm bán cao tráo.

Spring là Nhảy vọt: đây là cái bẫy cuối cùng do những tổ chức lớn tạo ra để đánh lừa những nhà đầu tư đã mua vào trước đó, khiến họ tin rằng thị trường sẽ tiếp tục giảm xuống và bán ra những cổ phiếu mà họ đang nắm giữ. Điều này khiến cho giá tiếp tục giảm mạnh và thường xuyên phá vỡ các ngưỡng hỗ trợ quan trọng. “Dòng tiền thông minh” lúc này sẵn sàng, đang chờ đợi mua vào với giá rất thấp, đảo ngược đà giảm mạnh đang hoản loạn trước đó, khiến cho thị trường tăng giá trở lại.

Trong giai đoạn tích lũy, Spring không phải là yếu tố bắt buộc, có nghĩa là nó có thể không xảy ra nếu vùng hỗ trợ SC có lực cầu hấp thụ đủ mạnh.

Test (Kiểm tra): các thế lực lớn thường test – kiểm tra lại nguồn cung trong suốt phạm vi giao dịch hoặc tại các vị trí quan trọng của giai đoạn tăng giá. Nếu nguồn cung tăng đáng kể khi test chứng tỏ thị trường chưa sẵn sàng cho xu hướng tăng. Một lần test thành công, giá sẽ tạo đáy cao hơn và khối lượng giao dịch sẽ giảm.

LPS (Last Point of Support – Điểm hỗ trợ gần nhất): khi thị trường bắt đầu đạt được khối lượng giao dịch và biến động giá lớn, LPS xuất hiện làm cho thị trường giảm sâu hơn, giống như lấy đà để chuẩn bị bức phá lên mức cao hơn. Trong sơ đồ giai đoạn tích lũy, có thể có nhiều hơn một điểm LPS.

SOS (Sign of Strength – Dấu hiệu sức mạnh): khi khối lượng giao dịch và biến động giá ngày càng tăng thì giá sẽ phá vỡ ra khỏi phạm vi giao dịch. Các mức kháng cự trước đó bị phá vỡ, trở thành những vùng hỗ trợ mới cho giá.

BU (Back-up): là một thuật ngữ được đặt ra bởi Robert Evans, một giáo viên hàng đầu của phương pháp Wyckoff từ những năm 1930-1960. Theo ông, BU có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như pullback hoặc là một vùng giá đi ngang mới ở mức cao hơn trước khi hình thành SOS.

5 giai đoạn nhỏ trong sơ đồ tích lũy

Giai đoạn A

Đánh dấu sự chậm lại của xu hướng giảm trước đó và khối lượng giao dịch tăng dần. Tại giai đoạn này, lực cung vẫn đang chiếm ưu thế hơn so với lực cầu. Tuy nhiên, lực cung đang suy yếu dần, điều này đã được minh chứng bằng sự xuất hiện của PS và SC.

Giai đoạn B

Đây chính là giai đoạn xây dựng nên “nguyên nhân” trong quy luật Nguyên nhân – Kết quả của phương pháp Wyckoff. Về cơ bản, đây là giai đoạn các “composite man” tích lũy số lượng tài sản lớn nhất ở mức giá thấp để đón đầu cho một xu hướng tăng mới. Giai đoạn này có thể kéo dài trong thời gian khá lâu, và thị trường thử nghiệm cả kháng cự phía trên và hỗ trợ phía dưới của Trading range.

Giai đoạn C

Giai đoạn này thực hiện một bài test mang tính chất quyết định, bao gồm một điểm Spring, đây thường là cái bẫy cuối cùng trước khi thị trường bắt đầu hình thành các đáy cao hơn.

Trong phương pháp Wyckoff, khi Spring diễn ra thành công với khối lượng thấp, cho thấy thị trường còn rất ít nguồn cung, chứng tỏ cổ phiếu đã sẵn sàng tăng giá. Đây chính là thời điểm tốt để nhà đầu tư vào lệnh Mua, sẽ mang lại cho nhà đầu tư cơ hội giao dịch với xác suất thành công cao và rủi ro thấp nhất.

Giai đoạn D

Đánh dấu quá trình chuyển tiếp từ “nguyên nhân” sang “kết quả”. Trong giai đoạn này thường xảy ra các đợt pullback, BU hoặc LPS trước khi hình thành SOS, với khối lượng giao dịch và biến động lớn. Ở giai đoạn này, khối lượng giao dịch thường tăng lên khi thử nghiệm các vùng hỗ trợ mới.

Giai đoạn E

Đây là giai đoạn giá đã thoát ra khỏi phạm vi giao dịch một cách rõ ràng nhất, lực cầu cao hơn nhiều so với lực cung, xu hướng tăng giá bắt đầu hình thành. Tuy nhiên, các nền giá mới ở mức cao hơn có thể hình thành tại bất kỳ thời điểm nào trong giai đoạn này, nhưng thường hình thành trong một thời gian ngắn (chính là các giai đoạn tái tích lũy), các nền giá mới này được xem là bước đệm để giá tiếp tục thu hút lực cầu đẩy giá tăng cao hơn.

Sơ đồ Wyckoff trong giai đoạn Phân phối

Sơ đồ Wyckoff trong giai đoạn phân phối

Sơ đồ Wyckoff trong giai đoạn Phân phối

Các sự kiện và giai đoạn trong sơ đồ Wyckoff này được gọi tên và diễn giải với các khái niệm khác đi.

Nhưng về bản chất, sơ đồ giai đoạn phân phối hoạt động tương tự và theo hướng ngược lại với giai đoạn tích lũy ở trên, do đó chúng ta chỉ đi nhanh qua các khái niệm này.

Giai đoạn A (phase A)

Đây là giai đoạn đầu tiên, khi thị trường bắt đầu tăng chậm lại do lượng cầu giảm và khối lượng giao dịch tăng dần. Nguồn cung sơ bộ cho thấy có một lực lượng người bán ra xuất hiện, tuy vậy vẫn không đủ mạnh để ngăn chặn xu hướng tăng. Sau đó Điểm mua cao trào được hình thành bởi một lực mua mạnh. Điều này thường được gây ra bởi những nhà giao dịch thiếu kinh nghiệm và mua theo cảm tính, fomo của thị trường tăng trước đó.

Tiếp theo, sự tăng giá mạnh mẽ gây ra một Phản ứng tự động, khi thị trường đáp ứng các nhu cầu mua vào. Nói cách khác, các “composite man” - người vận hành đằng sau bắt đầu phân phối các cổ phiếu của mình cho những người tham gia vào thị trường muộn. Thử nghiệm thứ cấp xảy ra khi thị trường xem xét lại khu vực BC, tạo ra một đỉnh cao hơn trên đồ thị.

Giai đoạn B (phase B)

Giai đoạn B của giai đoạn Phân phối đóng vai trò là vùng hợp nhất (Nguyên nhân) diễn ra trước khi thị trường giảm giá (Kết quả). Trong giai đoạn này, người vận hành đằng sau dần dần bán các tài sản của mình, đáp ứng các nhu cầu của thị trường và khiến các nhu cầu suy giảm.

Thông thường, các dải trên và dưới của phạm vi giao dịch được thử nghiệm nhiều lần, có thể bao gồm các bẫy giảm giá và tăng giá. Đôi khi, thị trường sẽ di chuyển trên mức kháng cự do BC tạo ra, dẫn đến một ST việc thị trường đi lên cũng có thể được gọi là Upthrust (UT).

Giai đoạn C (phase C)

Trong một số trường hợp, thị trường sẽ đưa ra một bẫy tăng giá cuối cùng sau giai đoạn hợp nhất. Nó được gọi là UTAD hay Upthrust After Distribution (Tăng giá sau phân phối). Về cơ bản, nó trái ngược với Accumulation Spring (nhảy vọt ở giai đoạn tích lũy).

Giai đoạn D (phase D)

Giai đoạn D của giai đoạn phân phối gần như là một hình ảnh phản chiếu của giai đoạn tích lũy. Nó thường có điểm kháng cự cuối cùng ở giữa phạm vi, tạo một đỉnh thấp hơn trên đồ thị. Từ thời điểm này, các điểm hỗ trợ gần nhất mới được tạo ra – xung quanh hoặc bên dưới vùng hỗ trợ. Một Sign of Weakness (SOW) (Dấu hiệu Suy yếu) xuất hiện khi thị trường phá vỡ bên dưới các đường hỗ trợ.

Giai đoạn E (phase E)

Giai đoạn cuối cùng của giai đoạn Phân phối đánh dấu sự khởi đầu của một xu hướng giảm giá với sự phá vỡ rõ ràng dưới phạm vi giao dịch do cung áp đảo mạnh mẽ so với cầu.

Hướng dẫn cách sử dụng phương pháp Wyckoff để tiếp cận thị trường

Hướng dẫn cách sử dụng phương pháp Wyckoff để tiếp cân thị trường

Phương pháp Wyckoff đề cập đến quy trình 5 bước để tiếp cận thị trường, lựa chọn cổ phiếu tiềm năng và tham gia giao dịch.

Bước 1: Xác định xu hướng

Bằng cách nhận định xu hướng hiện tại và dự đoán hướng đi của giá trong tương lai xuất phát từ việc phân tích cấu trúc thị trường và mối quan hệ cung và cầu. Xác định xu hướng giúp nhà đầu tư quyết định được có nên hay không tham gia vào thị trường tại thời điểm này và nên tham gia ở vị thế nào, mua hay bán?

Bước 2: Lựa chọn cổ phiếu phù hợp với xu hướng

Khi xu hướng tăng, nhà đầu tư hãy chọn cho mình các cổ phiếu mạnh trên thị trường, có mức tăng trưởng cao hơn mức chung. Hay nói cách khác, chúng là những cổ phiếu có phần trăm tăng cao hơn khi thị trường phục hồi và phần trăm giảm thấp hơn hoặc vẫn tăng khi thị trường hiệu chỉnh. Ngược lại, khi xu hướng giảm, nhà đầu tư hãy nhanh chóng lựa chọn các cổ phiếu có đà giảm lớn hơn đà giảm chung.

Bước 3: Chọn cổ phiếu có “nguyên nhân” đáp ứng được mục tiêu

Theo quy luật Nguyên nhân – Kết quả, liệu cổ phiếu đó có đủ Nguyên nhân, có đủ lý do mua hoặc bán, để mình có thể chấp nhận rủi ro giao dịch nhằm đạt được các phần thưởng (Kết quả) tiềm năng hay không?

Phương pháp của Wyckoff xác định mục tiêu giá dựa vào độ dài của giai đoạn tích lũy/phân phối khi thị trường đi ngang hoặc điều chỉnh.

Do đó, nếu bạn đang có ý định tham gia với vị thế mua, hãy chọn những cổ phiếu đang tích lũy hoặc tái tích lũy và có nguyên nhân đủ để thỏa mãn kết quả của bạn.

Bước 4: Xác định khả năng di chuyển của giá

Bước này tập trung đánh giá liệu rằng giá đã sẵn sàng phá vỡ phạm vi giao dịch để tăng lên sau đợt tích lũy hoặc sẵn sàng giảm xuống sau đợt phân phối hay chưa? Vị trí của nó trong xu hướng lớn hơn là gì? Giá và khối lượng giao dịch cho thấy điều gì?

Để nhận định khả năng di chuyển của giá, Wyckoff đã đề xuất 9 thử nghiệm hay còn được gọi là các tín hiệu mua và bán. Các thử nghiệm này là các nguyên tắc cụ thể, giúp xác định khi nào một phạm vi giao dịch sắp kết thúc và một xu hướng mới tăng giá hoặc giảm giá sắp bắt đầu.

9 thử nghiệm này cụ thể là:

  • Đã hoàn thành mục tiêu giảm giá – biểu đồ P&F.
  • Hình thành PS, SC và ST – biểu đồ Bar và P&F.
  • Xuất hiện các hoạt động tăng giá: khối lượng giao dịch tăng trong giai đoạn phục hồi và giảm khi hiệu chỉnh) – Biểu đồ Bar.
  • Trendline của xu hướng giảm bị phá vỡ, Biểu đồ Bar hoặc P&F.
  • Giá tạo đáy cao hơn – Biểu đồ Bar hoặc P&F.
  • Giá tạo đỉnh cao hơn – Biểu đồ Bar hoặc P&F.
  • Cổ phiếu mạnh hơn thị trường (tăng giá cao hơn khi phục hồi và phản ứng tốt hơn so với chỉ số của thị trường) – biểu đồ Bar.
  • Hình thành đường cơ sở (đường giá nằm ngang), nghĩa là thời gian tích lũy đủ lâu để tạo ra sự bức phá trong tương lai – Biểu đồ Bar hoặc P&F.
    • Ước tính lợi nhuận tiềm năng cao gấp 3 lần mức cắt lỗ (risk:reward) – Biểu đồ Bar hoặc P&F.

Bước 5: Xác định thời gian tham gia vào thị trường

Wyckoff cho rằng, chỉ nên tham gia vào thị trường khi các yếu tố của cổ phiếu riêng lẻ thỏa mãn được ¾ trở lên sự hài hòa với xu hướng chung của thị trường. Được như thế, giao dịch của bạn sẽ thành công hơn nhờ sức mạnh của tổng thể thị trường.

Ngoài ra, các nguyên tắc cụ thể trong các thử nghiệm của Wyckoff, cộng với các hành động giá trong phạm vi giao dịch sẽ giúp nhà đầu tư xác định điểm vào lệnh, cắt lỗ và chốt lời hợp lý.

Kết luận

Phương pháp Wyckoff ra đời đã gần một thế kỷ nhưng vẫn được sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay. Phương pháp Wyckoff không chỉ là một chỉ số mà nó còn bao gồm nhiều nguyên tắc, lý thuyết và kỹ thuật giao dịch.

Về cơ bản, Phương pháp Wyckoff cho phép các nhà đầu tư đưa ra quyết định hợp lý và có cơ sở hơn thay vì hành động theo cảm tính. Wyckoff cung cấp cho các nhà đầu tư và các nhà giao dịch một loạt các công cụ để giảm rủi ro và tăng cơ hội thành công của họ. Tuy nhiên, không có một kỹ thuật hoàn hảo nào khi đầu tư. Các nhà đầu tư và nhà giao dịch phải luôn cảnh giác với các rủi ro, đặc biệt là trong các thị trường tiền điện tử biến động mạnh như hiện nay.

Mặc dù các quy luật và nguyên tắc của phương pháp Wyckoff khá đơn giản nhưng để vận dụng và tiếp cận chúng một cách hiệu quả vào thị trường là rất khó khăn. Bên cạnh đó, thị trường không phải lúc nào cũng vận hành chính xác theo những mô hình này. Trong thực tế, sơ đồ giai đoạn tích lũy và phân phối có thể xảy ra theo nhiều cách khác nhau.

Hy vọng qua bài viết này bạn đọc sẽ hiểu được bản chất và nền tảng của phương pháp Wyckoff , từ đó vận dụng chúng vào quy trình phân tích thị trường và lựa chọn cổ phiếu tiềm năng để có được lợi nhuận trong quá trình giao dịch. Chúc các bạn vận dụng tốt và giao dịch thành công.

Để biết thêm các thông tin về chứng khoán mời các bạn xem bài viết tiếp theo tại https://mytrade.vn/ hoặc liên hệ theo số Hotline 1900966935 – 0983.668.883 để các bạn chuyên viên có thể hỗ trợ tốt nhất.

  • Bài viết nổi bật